
Nghiên cứu - Trao đổi
Đào tạo theo định hướng giáo dục khai phóng tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội
ĐÀO TẠO THEO ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỤC KHAI PHÓNG TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGOẠI NGỮ VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
PGS.TS Bùi Văn Quân
Tóm tắt:
Bài viết đặt ra một số vấn đề nhằm góp thêm luận cứ để triển khai đào tạo theo định hướng giáo dục khai phóng tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội, bao gồm:
1) Tại sao cần đặt vấn đề đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường;
2) Những rào cản/thách thức khi Nhà trường tổ chức đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng;
3) Đề xuất và lựa chọn giải pháp triển khai.
Đặt vấn đề
Thực tiễn giáo dục thường là quá trình triển khai các quan điểm/triết lí giáo dục bằng các trào lưu sư phạm. Trào lưu giáo dục khai phóng ở phương Tây phát triển khá mạnh qua các thời kỳ lịch sử, từ các nước có các nền giáo dục nguyên sinh ở châu Âu (Pháp, Anh, Đức…) cho đến một xứ thuộc địa đặc biệt giành độc lập và phát triển nhanh chóng như Hoa Kỳ (Trước khi trở thành một Hợp chủng quốc Hoa Kỳ như ngày nay, nước Mỹ - khởi thủy là 13 bang thuộc địa, từng là thuộc địa của Đế quốc Anh).
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới giáo dục đại học (GDĐH) vào những năm 90 của Thế kỷ XX, nhiều ý tưởng đổi mới được triển khai. Chương trình cử nhân được quy định gồm hai phần: phần giáo dục đại cương (general education) và phần giáo dục chuyên nghiệp (professional education) tại Quyết định 2677/GD-ĐT năm 1993 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT). Theo Quyết định này, thời lượng cho phần giáo dục đại cương bao gồm khoảng 0,4 khối lượng chương trình cử nhân (90/210 đơn vị học trình). Cùng với việc đổi mới chương trình, Bộ GD&ĐT triển khai tổ chức thực hiện chương trình đào tạo cử nhân thành hai giai đoạn: giai đoạn 1 cung cung cấp phần giáo dục đại cương, giai đoạn 2 cung cấp phần giáo dục chuyên nghiệp. Phần giáo dục đại cương đảm bảo cho người tốt nghiệp có tầm nhìn, có phương pháp tư duy, có tình cảm nhân văn. Như vậy, trong giai đoạn đầu đổi mới giáo dục đại học nước ta, phần giáo dục đại cương theo tinh thần giáo dục khai phóng đã được đưa vào chương trình đào tạo cử nhân, dấu mốc về giáo dục khai phóng ở nước ta đã được ghi nhận.
Tuy nhiên, giáo dục đại cương trong đào tạo đại học ở Việt Nam có tuổi thọ ngắn ngủi. Khi áp dụng quy trình đào tạo hai giai đoạn, vì một số trường đại học tổ chức thi chuyển giai đoạn quá căng thẳng gây nhiều phản ứng trong xã hội nên Chính phủ đã ra văn bản quy định “bỏ kỳ thi chuyển giai đoạn như một kỳ thi quốc gia” và bỏ mô hình trường đại học đại cương trong các đại học đa lĩnh vực.
Với thực tế này, việc đặt vấn đề về đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội chắc chắn sẽ làm nảy sinh những hoài nghi về mục tiêu và tính khả thi của nó. Theo đó, rất cần phải đặt ra và trả lời những câu hỏi đại loại như: 1) Tại sao cần tổ chức đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường; 2) Triển khai đào tạo theo mô hình này sẽ gặp những rào cản/thách thức nào? có thể vượt qua không? v.v.
NỘI DUNG
1. Khái lược về giáo dục khai phóng
Triết lí của giáo dục khai phóng (tiêu biểu là giáo dục khai phóng tại Hoa Kỳ) được xây dựng trên cơ sở các thuộc tính của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bao gồm: 1) Tính trường tồn: giáo dục có tính vĩnh hằng, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loại người với bản chất là sự tiếp nối kinh nghiệm xã hội – lịch sử qua các thế hệ loài người; con người ở mọi nơi đều có tính đồng nhất và giáo dục sẽ như nhau đối với mọi người; 2) Tính tinh túy: giáo dục là sự chuyển giao kinh nghiệm, tiếp nối kinh nghiệm xã hội qua các thế hệ. Những kinh nghiệm đó được xử lý, được lấy ra một cách chọn lọc từ di sản của nhân loại; 3) Tính tiến bộ: nhờ đặc tính tinh túy, giáo dục có tác động đến thực tiễn xã hội theo chiều hướng tích cực thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của mình; theo đó, giáo dục phải có tác dụng thực tiễn, người học phải được xác định là nhân vật trung tâm, lợi ích của người học xác định phương hướng của giáo dục, người dạy là người hướng dẫn người học để hỗ trợ người học phát triển phương pháp tư duy phê phán. Tư duy phê phán là kỹ năng có giá trị suốt đời trong khi kiến thức thì thường xuyên thay đổi; 4) Tính tái cấu trúc: giáo dục là hiện tượng xã hội, chịu sự chế ước của xã hội những nó có tính độc lập tương đối, có khả năng diều chỉnh, thay đổi để tồn tại, phát triển tốt hơn từ đó có tác động đến sự cấu trúc lại xã hội.
Giáo dục khai phóng coi nhiệm vụ đích thực của giáo dục là tiếp sức cho người học, giúp họ biết cách tự lực khai phóng chính mình, tự thay đổi mình theo cách của họ để trở thành con người mà họ muốn, sống cuộc đời mà họ mơ. Điều sâu xa nhất của giáo dục khai phóng chính là giáo dục nhân bản... lấy con người làm gốc, lấy độc lập, tự do, hạnh phúc của người học làm gốc chứ không phải lấy nhào nặn hay áp đặt của mình làm gốc. Con người trong giáo dục là mục đích chứ không phải là phương tiện, là công cụ.
Hình thái thực thể của giáo dục khai phóng là hoạt động đào tạo theo các chương trình giáo dục khai phóng đã thiết kế. Trong giáo dục đại học, chương trình giáo dục đại cương trong đào tạo đại học là chương trình được thiết kế theo tinh thần của giáo dục khai phóng. Tuy nhiên, cũng giống như hình thái lí thuyết của nó (giáo dục khai phóng), giáo dục đại cương có lịch sử phát triển tương đối thăng trầm. Vào đầu và giữa thế kỷ IXX giáo dục đại cương được ca ngợi là con đường/công cụ để rèn luyện trí tuệ, phát triển các phẩm chất đạo đức của sinh viên, cung cấp một nền giáo dục tự do. Đây là một trong những lí do khiến cho xu hướng lựa chọn tự do trong giáo dục đại học được đẩy mạnh ở các thập niên cuối thế kỷ IXX và hình thành cuộc vận động mới cho giáo dục đại cương vào đầu thế kỷ XX. Sau thế chiến thứ hai, cuộc vận động về giáo dục đại cương có được những thu hoạch đáng kể với đóng góp của Viện Đại học Harvard về một chương trình giáo dục đại cương cốt lõi cho chương trình đào tạo cấp đại học. Trong những năm cuối thế kỷ XX lại hồi sinh mối quan tâm về giáo dục đại cương để cung cấp giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ trong thời buổi mà sự bê bối về đạo đức thường xuyên gây mối lo cho cộng đồng, dân tộc ở nhiều quốc gia. Hiệp hội Các Trường Đại học Miền Nam Hoa Kỳ về kiểm định công nhận chất lượng đã quy định 13 điều kiện để có thể trở thành một thành viên dự bị, trong đó điều kiện thứ 10 quy định như sau: "Tất cả các chương trình đào tạo đại học của nhà trường phải có một phần đủ lớn các môn học giáo dục đại cương ở trình độ đại học: chương trình cao đẳng có ít nhất 15 tín chỉ, chương trình cử nhân có ít nhất 30 tín chỉ. Các giáo trình không được tập trung hẹp vào các kỹ năng, kỹ thuật và quy trình riêng biệt đối với một nghề xác định." (Bức tranh về giáo dục khai phóng, 2017).
Mặc dù có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một quan niệm chung nhất về giáo dục đại cương. Có thể nêu một số quan niệm tiêu biểu: giáo dục đại cương là yêu cầu tiên quyết cho việc học chuyên ngành; là những điều chung nhất của văn hóa nhân loại; là một kinh nghiệm tổng hợp dựa trên khối đồng nhất các kiến thức; là sự chuẩn bị để tham gia vào một xã hội dân chủ; là một liều thuốc giải độc cho tình trạng dã man vô văn hóa; là sự giáo dục bắt rễ từ mối quan tâm đến nền văn minh di sản chung; là một nền giáo dục tự do (liberal education)… GS Nguyễn Viết Khuyến mượn một định nghĩa từ Đạo luật về Giáo dục năm 1989 của New Zealand về thuật ngữ "văn bằng đại học" (degrees) làm rõ hơn quan niệm về chương trình đào tạo đại học, từ đó thể hiện quan điểm của mình về giáo dục đại cương trong chương trình đào tạo đại học: “văn bằng đại học là cái được cấp để công nhận việc hoàn thành một chương trình học trình độ cao mà…nhấn mạnh những nguyên lý chung và kiến thức cơ bản xem như là cơ sở để làm việc và học hành một cách chủ động" (Bức tranh về giáo dục khai phóng, 2017).
Những nguyên lí chung và kiến thức cơ bản được nêu trong định nghĩa trên phản ánh quan điểm của giáo dục khai phóng về nội dung học vấn cần trang bị cho người học đại học. Học vấn đó là những gì cần phải xử lí từ các ngành khoa học và các lĩnh vực hoạt động thực tiễn để đưa vào chương trình đào tạo. Với tư duy này, chương trình đạo tạo ở giai đoạn giáo dục đại cương sẽ bao gồm tổ hợp các môn học mà SV lựa chọn dưới sự hướng dẫn của cố vấn học tập. Tổ hợp các môn học này được hình thành từ các ngành khoa học và lĩnh vực hoạt động thực tiễn như: khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và lĩnh vực nghệ thuật.
Như vậy, yêu cầu học vấn được chuyển giao trong nhà trường theo quan điểm của giáo dục khai phóng là: người học cần học khoa học, học nghệ thuật và học cách/lối sống; trong và bằng quá trình tích lũy học vấn này, người học sẽ hình thành và theo đuổi được các giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
2. Tại sao cần đặt ra vấn đề về tổ chức đào tạo theo tình thần giáo dục khai phóng tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội
2.1. Nhìn lại mô hình đào tạo hai giai đoạn trong đào tạo đại học ở Việt Nam
Đào tạo 2 giai đoạn là khái niệm được sử dụng phổ biến trong thời kì đổi mới giáo dục đại học Việt Nam (bắt đầu từ những năm 1990). Khái niệm này có nội hàm đề cập đến cấu trúc và tổ chức thực thi chương trình đào tạo đại học của nước ta. Với những định hướng của Nghị định số 90/CP năm 1993, để thích nghi với việc chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kiến thức của chương trình đào tạo cấp đại học được cấu trúc lại, bao gồm hai thành phần (Quyết định 2677/GD-ĐT ngày 03/12/1993 ban hành Qui định về cấu trúc và khối lượng kiến thức tối thiểu cho các cấp đào tạo hai giai đoạn ở đại học):
- Kiến thức giáo dục đại cương (thể hiện rõ tinh thần của giáo dục khai phóng) bao gồm các học phần thuộc 6 lĩnh vực: Khoa học xã hội, Nhân văn, Khoa học tự nhiên và Toán học, Ngoại ngữ, Giáo dục quốc phòng và Giáo dục thể chất. Mục tiêu của thành phần này là tạo cho người học tầm nhìn rộng, thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn; hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người (trong đó có bản thân); nắm vững phương pháp tư duy khoa học; biết trân trọng các di sản văn hoá của dân tộc và nhân loại; có đạo đức, nhận thức trách nhiệm công dân; yêu Tổ quốc và có năng lực tham gia bảo vệ Tổ quốc, trung thành với lý tưởng Xã hội chủ nghĩa. Kiến thức giáo dục đại cương còn cung cấp cho người học tiềm lực vững vàng để một mặt, họ có thể học tốt các kiến thức nghề nghiệp ở giai đoạn sau cũng như có thể cập nhật và nâng cao nghề nghiệp suốt đời; mặt khác, khi cần thiết họ có thể đổi hướng nghề nghiệp cho phù hợp với các biến động của thị trường lao động. Các học phần giáo dục đại cương có thể tồn tại dưới dạng những môn học riêng biệt kiểu truyền thống hoặc dưới dạng những môn học tích hợp từ một số ngành khoa học.
- Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp bao gồm ba bộ phận: nhóm học phần cốt lõi (kiến thức cơ sở của ngành hoặc liên ngành, bao gồm cả các học phần khoa học cơ bản phục vụ cho chuyên môn, ngoại ngữ chuyên ngành và khoa học quân sự chuyên ngành; riêng đối với các chương trình đào tạo giáo viên còn bao gồm cả phần kiến thức về tâm lý học, giáo dục học ); nhóm học phần ngành chính và nhóm học phần ngành phụ (không nhất thiết phải có), nhằm cung cấp cho người học những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ban đầu. Tên ngành đào tạo được xác định theo nhóm kiến thức ngành chính. Các khối kiến thức nêu trên có thể chứa các học phần thuộc ba loại: học phần bắt buộc phải học, học phần tự chọn (theo hướng dẫn của nhà trường) và học phần tuỳ ý. Riêng khối kiến thức cốt lõi chỉ chứa các học phần bắt buộc.
Với cấu trúc chương trình nêu trên, việc tổ chức thực hiện chương trình được thực hiện theo 2 giai đoạn: giai đoạn giáo dục đại cương và giai đoạn giáo dục nghề nghiệp/chuyên nghiệp. Sinh viên sau khi hoàn thành giai đoạn giáo dục đại cương được tham dự kì thi (sinh viên thường gọi là thi vượt rào) để được lựa chọn học tiếp giai đoạn giáo dục nghề nghiệp.
Đào tạo 2 giai đoạn trong đào tạo đại học ở nước ta có tuổi thọ không dài. Mặc dù chưa có những tổng kết thật đầy đủ nhưng thực tế không thể phủ nhận là đào tạo đại học 2 giai đoạn đã không thành công (Chỉ thị 30/1998/CT-TTg ngày 01/9/1998 về Điều chỉnh chủ trương phân ban ở phổ thông trung học và đào tạo hai giai đoạn ở đại học đã bỏ qui định cứng về đào tạo hai giai đoạn và kì thi chuyển giai đoạn như là một kì thi quốc gia; Thông tư 07/2015/TT- BGDĐT ngày 16/4/2015 đã bãi bỏ Quyết định 2677/GD-ĐT ngày 03/12/1993).
Nguyên nhân của sự không thành công trong đào tạo hai giai đoạn có thể là:
1. Đi sớm, gây sốc: Khía cạnh tích cực của đào tạo hai giai đoạn, tính tiên phong, tiến bộ của giáo dục khai phóng chưa thể được sự ưu việt với cách nghĩ, cách làm giáo dục tại thời điểm nó được cổ xúy, xây dựng.
Vào trước những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề đào tạo gắn với thị trường lao động còn ít được quan tâm; cơ chế bao cấp vấn có những ảnh hưởng đáng kể đối với đào tạo đại học với biểu hiện cụ thể là hoạt động nghiên cứu phát triển chương trình đào tạo rất hạn chế. Theo đó, các trường đại học với truyền thống đào tạo của mình (ngành đào tạo truyền thống, phương thức/phương pháp đào tạo truyền thống) sinh viên của họ vẫn có việc làm sau tốt nghiệp). Bên cạnh đó, cơ chế tuyển dụng, sử dụng lao động vẫn cơ bản chú trọng vào trình độ đào tạo của người lao động (dựa trên văn bằng đào tạo người lao động có được dẫn đến hội chứng bằng cấp).
2. Cách làm: cách làm chưa thật sự khoa học: (i) hình thành thêm một cơ sở đào tạo quản lí vận hành chương trình giáo dục đại cương (hình thành đại học đại cương để thực hiện đào tạo giai đoạn 1 cho các trường đại học, mặc dù có sử dụng nhân lực giảng dạy của các trường đại học); (ii) sinh viên phải thi tuyển sau khi hoàn thành đào tạo giai đoạn 1, tạo sức ép cho xã hội và sinh viên (2 lần thi đại học).
Những trở ngại trong quá trình đổi mới là không tránh khỏi. Mặc dù đã diễn ra sự dằng co giữa giáo dục khai phóng và đào tạo nghề theo diện hẹp ở nhiều trường đại học, nhưng dù sao một dấu mốc về giáo dục khai phóng ở nước ta đã được ghi nhận. Trên thực tế, vào những năm đầu thế kỷ XXI, nhu cầu về những “kỹ năng mềm” đối với sinh viên tốt nghiệp đã nổi lên, và nhiều trường đại học đã đưa vào chương trình chính khóa cũng như ngoại khóa một số nội dung về giáo dục khai phóng.
2.2. Lý do cần đặt vấn đề đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội
Đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội xuất phát từ những lý do sau:
2.2.1. Thực tiễn đã khẳng định những đóng góp tích cực của tư tưởng về đào tạo hai giai đoạn theo tinh thần giáo dục khai phóng trong đào tạo đại học ở Việt Nam
Thực tiễn đào tạo hai giai đoạn theo tinh thần giáo dục khai phóng đã khẳng định những ảnh hưởng tích cực của nó với giáo dục đại học nước ta. Cụ thể:
1. Thay đổi tư duy về đối tượng đào tạo (con người – sinh viên), họ là mục đích của giáo dục nói chung, đào tạo nói riêng chứ không đơn giản chỉ là công cụ của mục tiêu đào tạo. Theo đó, đào tạo ở đại học phải phát huy tối đa năng lực, sở thích và nguyện vọng cá nhân của SV trong lựa chọn ngành nghề đào tạo. Muốn vậy, họ cần được và phải có năng lực tư duy và lựa chọn tự do, tính chủ động và năng lực sáng tạo (đào tạo hai giai đoạn thực hiện yêu cầu này bằng việc trang bị cho sinh viên kiến thức nền rộng,kết hợp với các kiến thức liên ngành để có cơ sở lựa chọn ngành và phát triển các kiến thức ngành một cách sâu sắc).
2. Tạo ra sự thay đổi trong tư duy về chức năng của trường đại học: trường đại học không thuần túy là môi trường học thuật hàn lâm mà phải gắn kết nhiều hơn nữa với cộng đồng và thực tiễn phát triển của xã hội;
3. Khiến cho hoạt động của trường đại học thông thoáng hơn, cởi mở hơn, làm tiền đề cho tự chủ đại học những năm tiếp theo;
4. Tạo bước chuyển quan trọng trong hoạt động phát triển chương trình đào tạo của các trường đại học (trang bị lí luận và thực hành phát triển chương trình đạo tạo cho nhân sự giảng dạy, quản lí đào tạo ở các trường đại học);
Chính vì những ảnh hướng tích cực này mà sau hơn nhiều năm không triển khai đào tạo theo chương trình giáo dục đại cương, đến nay, vấn đề này lại được nhắc đến trên diễn đàn nhiều hội nghi/hội thảo về giáo dục đại học. Hiện có một số trường đại học thực hiện đào tạo theo tinh thần của giáo dục đại cương/giáo dục khai phóng (đã có những trường đại học tổ chức đào tạo theo hướng này nhưng không tuyên ngôn).
2.2.2. Giáo dục khai phóng là xu hướng của tương lai
Giáo dục khai phóng cho thế kỷ XXI, theo định nghĩa của Hiệp hội các Đại học và Cao đẳng Hoa Kỳ, là “một lối học làm cho các cá nhân có năng lực mạnh mẽ, và chuẩn bị họ xử lý được tính phức tạp, đa dạng và thay đổi. Nó cung cấp cho sinh viên tri thức rộng của thế giới rộng hơn (chẳng hạn khoa học, văn hóa, và xã hội) cũng như sự nghiên cứu-chiều-sâu trong một lãnh vực đặc biệt của mối quan tâm. Một nền giáo dục khai phóng giúp sinh viên phát triển ý thức trách nhiệm xã hội, cũng như các kỹ năng tri thức và thực hành mạnh và có thể chuyển giao được như sự truyền đạt, các kỹ năng phân tích và giải quyết-bài-toán, và một năng lực đã được chứng minh bằng cách áp dụng tri thức và kỹ năng trong những hoàn cảnh của thế giới thật. Hiệp hội cũng xác định: “Giáo dục phục vụ cho nền dân chủ tốt nhất khi nó chuẩn bị cho chúng ta trả lời đúng các câu hỏi phải đối mặt hiện nay: các câu hỏi về thế giới rộng mở, về các giá trị riêng của chúng ta, và về các lựa chọn khó khăn mà chúng ta phải thực hiện với tư cách là những con người và những công dân…Cách tiếp cận đối với giáo dục đại học phục vụ tốt nhất cho mọi người, cho nền dân chủ gắn kết toàn bộ chúng ta và cho một nền kinh tế tân tiến – đó là giáo dục khai phóng” (Bức tranh về giáo dục khai phóng, 2017).
Fareed Rafiq Zakaria, tác giả của cuốn sách: “Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng”, bằng những trải nghiệm cá nhân, qua lăng kính như của một sử gia và nền tảng kiến thức của một nhà khoa học chính trị của mình đã khẳng định: “Tất cả chúng ta, cả già lẫn trẻ không đủ thời gian và công sức để suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Chúng ta không nhìn vào bên trong bản thân đủ mức độ để hiểu những điểm mạnh và điểm yếu của mình và chúng ta không nhìn xung quanh, nhìn ra thế giới, nhìn vào lịch sử đủ mức độ để nêu những câu hỏi sâu sắc nhất và bao quát nhất”, từ đó ông đề xuất giải pháp: “Ngay bây giờ, tất cả chúng ta có thể sử dụng nền giáo dục khai phóng nhiều hơn một chút để làm người lao động tốt, giúp chúng ta trở thành những người đối tác, bạn bè, cha mẹ và người công dân tốt”. Tác giả cũng thể hiện rõ quan điểm của mình về giáo dục khai phóng. Theo ông, giáo dục khai phóng không tạo ra một nghề gì cụ thể nhưng với cấu tạo chủ yếu là các môn khoa học xã hội nhân văn như lịch sử, triết học, mỹ thuật, văn học nó tạo cho con người học một nền tảng tốt, một tư duy sắc sảo và độc đáo để họ có khả năng học hỏi suốt đời và có thể làm tốt bất cứ việc gì (Zakaria, 2015).
Malcolm Gladwell nhận xét về cuống sách của Fareed Rafiq Zakaria như sau “Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng" đã chứng minh đầy thuyết phục rằng đại học không thể chỉ là một trường để dạy người ta làm nghề. Rời xa giáo dục khai phóng khiến chúng ta nghèo đi, theo mọi nghĩa. Cuốn sách này của Zakaria đã đến vào thời điểm không thể phù hợp hơn” (Linh Vân, 2023).
Như vậy, bước vào thế kỷ 21, giáo dục khai phóng có dấu hiệu phục hồi trên toàn cầu và được xác định là xu hướng của giáo dục tương lai. Giáo dục khai phóng trở nên phổ biến hơn, xuyên suốt hơn trong chương trình đào tạo cử nhân, Vì lẽ:
Một là, công nghệ mới làm cho xã hội biến đổi nhanh chóng, cần một tầm nhìn rộng lớn mới định hướng được cuộc sống như cần la bàn để đi biển.
Hai là, người ta ngày càng nhận ra sự cần thiết của các “kỹ năng mềm” (khả năng giao tiếp, óc phê phán, tổng hợp và phân tích).
Ba là, do vòng đời công nghệ quá ngắn, thế kỷ 21 không đảm bảo một nghề nghiệp ổn định: thị trường nhân lực rất đa dạng và đầy biến động. Chương trình đào tạo chuyên môn hẹp không thích hợp với nền kinh tế tri thức đòi hỏi kiến thức rộng liên ngành và năng lực đổi mới. Đặc biệt trong bối cảnh phát triển của trí tuệ nhân tạo, sẽ có nhiều ngành nghề, công việc sẽ được AI thay thế. Trong bối cảnh này, nếu trí tuệ tự nhiên của con người có thể sẽ thua trong việc cạnh tranh với trí tuệ nhân tạo của các cỗ máy thì ý thức về bản thân, cảm xúc, tình yêu thương sẽ là những lĩnh vực mà các cỗ máy này khó lòng chạm đến.
Khái quát lại, giáo dục khai phóng trong tương lai, đặc biệt trong giáo dục đại học sẽ là một xu hướng, vì:
1. Xu hướng trở lại với những giá trị cốt lõi của nhân loại, đề cao tính nhân văn, tinh thần dân chủ đã là xu hướng hiện thực trong cải cách, canh tân giáo dục của nhiều nước, nhất là trong bối cảnh đạo đức xã hội, giá trị văn hóa dân tộc ở nhiều quốc gia được cảnh bảo xuống cấp nghiêm trọng;
2. Tự chủ trong giáo dục, nhất là trong giáo dục đại học khuyến khích những cách làm sáng tạo hướng đến lợi ích của người học nhiều hơn, thực sự coi người học là mục đích của giáo dục, đào tạo;
3. Mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục và cộng đồng ngày càng được gia tăng; thị trường lao động và thế giới nghề nghiệp ngày càng biến động dẫn đến những thay đổi trong tuyển chọn nhân lực (chú trọng năng lực thực tiễn) và đòi hỏi nhân lực phải có năng lực thay đổi/di chuyển/thích ứng nghề nhanh và cao hơn;
4. Hệ quả tất yếu của tự chủ có thể được xem xét ở nhiều phương diện. Về phương diện kinh tế là phải góp phần giải quyết được những bài toán kinh tế trong giáo dục. Theo đó hầu hết các trường đại học đều chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư cho các hoạt động của đơn vị mình. Nâng cao hiệu xuất đào tạo nhờ đó nâng hiệu quả đầu tư đào tạo được quan tâm hàng đầu.
Với Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội, việc lựa chọn đào tạo theo định hướng giáo dục khai phóng được lý giải cụ thể như sau:
1. Có những điều trong quá khứ chưa hoặc không thể làm được thì nay có thể hoặc hoàn toàn làm được. Làm được, vì bối cảnh, môi trường hiện nay khiến một số yếu tổ là nguyên nhân của việc chưa làm được không còn đóng vai trò như trước đây; thêm nữa, cũng chính bối cảnh và môi trường hiện nay khiến những mặt tích cực của việc chưa làm được ở giai đoạn trước, nay được khẳng định sâu sắc hơn, thuyết phục hơn.
2. Cho đến thời điểm hiện nay, trường cao đẳng là cơ sở giáo dục nghề nghiệp hay cơ sở giáo dục đại học vẫn chưa được khẳng định. Tuy nhiên, Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội cần chuẩn bi nội lực để thích ứng nhanh với cơ chế quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Là trường cao đẳng non trẻ trong quan hệ so sánh với nhiều trường cao đẳng và các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội, để đẩy nhanh tiến độ hội nhập với giáo dục đại học của cả nước, Nhà trường cần phải tạo được sự khác biệt trong sản phẩm và hoạt động của mình, trong đó khác biệt về sản phẩm là quan trọng. Sự khác biệt trong sản phẩm lại được quyết định bởi sự khác biệt về cách thức tạo ra sản phẩm. Cách thức mà chúng ta lựa chọn là thực hiện là nội dung đào tạo đại cương, là giáo dục đại cương mang đậm hơi thở của giáo dục khai phóng.
3. Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội muốn khẳng định hơn nữa vị thế của mình, muốn có những tác động hữu ích đến hệ thống giáo dục đại học quốc gia bằng việc tạo hệ thống mạng lưới cùng tham gia tuyển sinh, đào tạo trình độ đại học với các trường có thực hiện giáo dục đại cương/ giáo dục khai phóng.
3. Các rào cản/thách thức cần vượt qua
3.1. Tính pháp lí
Mọi quyết định/giải pháp chúng ta đưa ra phải có tình khả thi. Có nhiều yếu tố ràng buộc với mỗi quyết định/giải pháp. Mức độ thỏa mãn của quyết định/giải pháp do chúng ta đưa ra với các yếu tố này quyết định tính/mức độ tính khả thi của quyết định/giải pháp của chúng ta. Hai yếu tố quan trọng qui định tính khả thi của quyết định/giai pháp là yếu tố pháp lí và yếu tố quyền lực (thẩm quyền – ra quyết định, đề xuất, lực chọn giải pháp đúng với phạm vi quyền lực được trao).
3.2. Thay đổi cơ cấu nhân lực (đặc biệt là nhân lực giảng dạy) và chính sách đãi ngộ với nhân lực của Nhà trường
Bài toán nâng cao hiệu xuất đào tạo nhờ đó nâng hiệu quả đầu tư đào tạo có lời giải tập trung nhiều vào giai đoạn giáo dục đại cương trong chương trình và quá trình đào tạo. Cụ thể:
(i) Mô hình lớp học đông sinh viên được sử dụng rộng rãi; giáo dục số (trước hết là đào tạo trực tuyến) sẽ phát triển;
(ii) Tự chủ phát triển nghề nghiệp (mấu chốt là tự chủ về chuyên môn của giảng viên) sẽ được đề cao.
Rõ ràng, 02 mệnh đề phản ánh tính qui luật đã xuất hiện và chi phối công tác nhân lực của nhà trường: một là, giáo dục là một sự sàng lọc; hai là, thích ứng là một cơ chế của tồn tại và đào thải.
3.3. Năng lực đáp ứng của nhà trường về các điều kiện đảm bảo chất lượng
Thực thi đào theo giáo dục khai phóng đòi hởi những điều kiện nhất định:
(i) Đội ngũ (nhất là đội ngũ GV) và năng lực thực hiện;
(ii) Cơ sở vật chất sư phạm (giảng đường, phòng học đa năng, học liệu của đào tạo trực tuyến .v.v.) ;
(iii) Hệ thống quản lí chất lượng (mô hình quản lí chất lượng được lựa chọn và vận hành mô hình đó);
(iv) Năng lực quản lí điều hành, nhất là khi trường tham gia đào tạo khối kiến thức đại cương cho các trường đại học
4. Cách làm của chúng ta
4.1. Định hướng
- Cần đến sự khôn khéo để có thể theo đuổi được mục tiêu
Sự tuyên bố về thực hiện giáo dục đại cương, về tham gia đào tạo khối đại cương cho các trường đại học là chưa thật không khôn ngoan trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiện, không tuyên bố không có nghĩa là không làm. Một cách khôn khéo là vẫn làm những không để bị thổi còi vì dẫm vạch. Muốn vậy, cần suy nghĩ kĩ hơn về một tuyên ngôn với công luận.
- Không cầu toàn
Không hy vọng một chương trình đào tạo trọn vẹn cho mỗi ngành đào tạo. Vừa làm vừa vừa điều chỉnh; làm trước hoàn thiện sau
- Đương đầu với cái khó, quyết tâm vượt rào cản.
4.2. Bước đi
- Tìm kiếm điểm tựa pháp lí:
Xây dựng, trình phê duyêt đề án “Đổi mới chương trình đào tạo trình độ cao đẳng của Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ theo định hướng giáo dục khai phóng”
- Tìm kiếm điểm tựa kĩ thuật
Phát triển chương trình đào tạo trình độ cao đẳng theo định hướng giáo dục khai phóng tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội được thực hiện theo khung lí thuyết: Giáo dục cơ bản/đại cương, hướng nghiệp và giáo dục chuyên nghiệp/nghề nghiệp.
Giai đoạn giáo dục cơ bản, hướng nghiệp với thời lượng không quá 1 năm đào tạo nhằm thực hiện mục tiêu giúp SV có kiến thức nền rộng, kiến thực nhóm ngành hữu ích làm điểm tựa cho phát triển giá trị sống, giá trị nghề nghiệp. năng lực sáng tao, thích ứng cao có nhiều điều kiện thuận lợi để học tập chuyên sâu, hình thành, phát triển các kĩ năng bậc cao.
Chương trình ở giai đoạn này bao gồm:
(1) Chương trình chung dành cho mọi sinh viên mới nhập học (các môn chung theo quy định của bộ và các môn dành cho sinh viên của Trường);
(2) Chương trình dành cho sinh viên theo nhóm ngành (Ngoại ngữ, Kinh tế…).
Giai đoạn giáo dục chuyên nghiệp/nghề nghiệp với thời lượng không quá 1,5 năm đào tạo nhằm mục tiêu hình thành năng lực nghề nghiệp, phát triển các kĩ năng bậc cao đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và nhà tuyển dụng.
- Tìm kiếm điểm tựa hỗ trợ
Trong cuộc sống, hiểu biết là tiền đề cho sự thông cảm, chia sẻ lẫn nhau của các thành viên trong cộng đồng. Với trường chúng ta, trong khuôn khổ mục tiêu chúng ta hướng đến, hiểu biết là tiền đề để chúng ta hiện thực mục tiêu này.
Năng lực phát triển chương trình đào tạo là điều kiện cần để thực thi ý tưởng của chúng ta. Rất cần đến một đội ngũ chuyên gia về vấn đề này. Đội ngũ này sẽ giúp chúng ta thiết lập khung lí thuyết của chương trình đào tạo dự kiến của chúng ta phù hợp với những qui định hiện hành của Bộ GD&ĐT (những qui định về chương trình khung, khung chương trình, khối kiến thức, tự chủ của trường đến đâu trong xây dựng, thực hiện chương trình đào tạo v.v.)
Nếu có được đội ngũ cố vấn học tập là các chuyên gia phát triển chương trình chúng ta sẽ điều chỉnh kĩ thuật thiết kế chương trình giáo dục cơ bản.
Sớm có kế hoạch phát triển các giảng đường, các phòng học đa năng và những học liệu cốt lõi phục vụ cho giai đoạn đào tạo cơ bản, hướng nghiệp
Đảm bảo tối đa tỉ lệ đào tạo trực tuyến được Bộ cho phép; triển khai trên diện rộng mô hình đào tạo theo định hướng ứng dụng dựa trên tự chủ phát triển nghề nghiệp của giảng viên .
KẾT LUẬN
Từ ý tưởng của giáo dục khai phóng và những bài học rút ra về đào tạo hai giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn giáo dục đại cương; căn cứ thực tiễn và bối cảnh phát triển của mình, Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội hoàn toàn có cơ sở để tổ chức đào tạo theo tinh thần của giáo dục khai phóng tại Trường.
Nhà trường sẽ xây dựng và thực thi đề án “Đổi mới chương trình đào tạo trình độ cao đẳng của Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ theo định hướng giáo dục khai phóng”
Chúng ta tin tưởng sự thành công bởi chúng ta có sự đồng thuận và bản lĩnh. Con đường được tạo bởi đi nhiều lần và nhiều người đi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bức tranh về giáo dục khai phóng..., Truy cập ngày 20/01/2025 từ Giáo dục Việt Nam ngày 08/12/2017 . https://giaoduc.net.vn › buc-tranh-ve-giao-duc-khai-ph...
Linh Vân (2023),:Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng”: Một nền giáo dục hướng tới con người. Báo Nhân dân điện tử. Thứ bảy, ngày 18/02/2023.
Một nền giáo dục khai phóng ở thể kỹ 21 là gì? Truy cập ngày 20/01/2025, từ Spiderum ngày 07/12/2017, https://spiderum.com › bai-dang › MOT-NEN-GIAO-D...
Fareed Rafiq Zakaria (2015), Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng. Nxb Dân trí